Thân thế Trân phi

Dòng dõi đương thấp

Trân phi sinh ngày 3 tháng 2 (âm lịch) năm Quang Tự thứ 2 (1876), xuất thân từ Mãn Châu Tương Hồng kỳ Tha Tha Lạp thị (他他拉氏), cũng phiên thành Tha Tháp Lạp thị (他塔喇氏). Một chi gia tộc Tha Tha Lạp thị này tương đối không mấy hiển hách, nếu không muốn đánh giá là tương đối kém.

Chi hệ Tha Tha Lạp thị của Trân phi lệ thuộc Mãn Châu Tương Hồng kỳ đệ nhất Tham lĩnh (參領), thuộc Tá lĩnh thứ 13, chức Tá lĩnh này được quản lý bởi hậu duệ của Lang Cách (郎格), thế hệ lớn của Đại Đồ Khố Ha Lý (岱圖庫哈里) thuộc một chi Tha Tha Lạp. Con trai của Lang Cách là A Nhĩ Bố Ni (阿爾布尼) nhậm Tá lĩnh, cháu Đạt Đô (達都) nhậm Phụng Thiên tướng quân, là Thanh sơ quan lại thế gia. Tuy nhiên, dù dòng dõi gia tộc của Ôn Tĩnh Hoàng quý phi cũng lệ thuộc dưới sự quản lý của con cháu Lang Cách, cùng họ Tha Tha Lạp thị, nhưng gia tộc của bà cùng Lang Cách lại không chung một gốc, cơ bản không có quan hệ huyết thống, hơn nữa thân phận chênh lệch rất lớn.

Căn cứ gia phả của Trân phi, tổ tiên nhập kỳ tên gọi Ngạch Nhĩ Cổ Đại (額爾古岱), tính từ Ngạch Nhĩ Cổ Đại qua tới 5 đời đều chỉ là thường dân. Đến đời thứ 6, có người tên Ngũ Đạt Sắc (五達色) mới làm được chức quan, là Lục phẩm "Kiêu Kị giáo" (驍騎校), tuy nhiên qua đến đời con trai ông là Toàn Bảo (全保) thì lại trở về làm thường dân. Con trai của Toàn Bảo, tên gọi Tát Lang A (薩郎阿) thi đậu Phiên dịch Cử nhân năm Càn Long thứ 57, làm đến Lục phẩm Chủ sự của bộ Lại. Đến đây thì gia tộc của Trân phi chỉ dừng ở mức trung cấp quan liêu. Tát Lang A sinh ra ba con trai: Thành Thái (成泰) nhậm "Bút thiếp thức", Tân Thái (新泰) làm Chủ sự Thái Lăng; con út Dụ Thái (裕泰), là tổ phụ của Trân phi.

Gia thế bay lên

Tổ phụ Dụ Thái của Trân phi từ xuất thân Quan học sinh, thi đậu Nội các Trung thư mà xuất sĩ làm quan, thời Đạo Quang nhậm qua Án sát, Bố chính sứ đến Thống đốc Thiểm TâyCam Túc, trở thành một quan viên địa phương có chức quyền, thụy là Trang Nghị (莊毅). Dụ Thái đắc thế, làm một chi Tha Tha Lạp thị từ một gia đình quan liêu trung cấp bay thẳng lên hàng thế gia. Điều này có thể chứng minh qua vòng hôn nhân của gia tộc, khi trước đó các vị tằng tổ mẫu và tổ mẫu của Dụ Thái đều là con gái nhà Bát Kỳ bình thường, thậm chí nguyên phối của Dụ Thái là Qua Nhĩ Giai thị (瓜爾佳氏) xuất thân cũng cực kì bình thường.

Nhưng từ khi Dụ Thái đắc thế, hôn nhân trong nhà Tha Tha Lạp thị phất lên qua các đời con của ông. Dụ Thái có 4 trai 4 gái, trong đó: con cả Trường Khải (長啟), cưới Ngũ Di Đặc thị (伍彌特氏) là con gái của Nhất đẳng Kế Dũng hầu Tô Sùng A (蘇崇阿); con trai thứ Trường Thiện (長善), cưới Qua Nhĩ Giai thị là con gái Đại học sĩ Quế Lương (桂良); con thứ 3 Trường Kính (長敬) cưới Hách Xá Lý thị là con gái Thị lang Thư Nguyên (書元). Con trai út, Tả Thị lang Bộ Lễ Trường Tự (長敘), cha của Trân phi, cưới tới 4 vị chính thê, bao gồm: vị thứ nhất, con gái của Nhàn tản Tông thất Đại học sĩ Bảo Hưng (寶興), vị thứ 2 là con gái của Huệ Đoan Thân vương Miên Du, vị thứ 3 là con gái của Bát nhập Bát phân Phụ quốc công Đại học sĩ Tái Linh (載齡). Trong đó, vị thứ 2 là cháu gái gọi Gia Khánh Đế bằng ông nội, rõ ràng là được chỉ hôn từ ngay trong cung, dù gia thế nhà Tha Tha Lạp thị từ thời Dụ Thái mới lên, chỉ xét vào "Tân quý", nhưng có thể đạt đến được chỉ hôn cho Quận chúa, quả thật không hề đơn giản.

Tuy vậy, các vị chính thất của Trường Tự đều không lưu lại hậu duệ. Con trai độc nhất, Chí Kĩ (志錡), là do thiếp thất Triệu thị (趙氏) sinh ra, và Triệu thị cũng là mẹ sinh của Trân phi và Cẩn phi. Chị em bà là hai người con nhỏ nhất trong số năm con gái của Trường Tự. Thời trẻ, chị em bà sống tại Quảng Châu. Năm 13 tuổi, Trân phi và Cẩn phi được đón vào Kinh thành.